Đã từ lâu, công tác dân số luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 216/QĐ-CP ngày 26/12/1961 về sinh đẻ có hướng dẫn cho nhân dân do cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ban hành. Quyết định 216/QĐ-CP được coi là văn bản pháp quy đầu tiên của Nhà nước ta về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình và mang đậm tính nhân văn “Vì sức khoẻ của người mẹ, vì hạnh phúc và hoà thuận của gia đình và để cho việc nuôi dạy con cái được chu đáo, việc sinh đẻ của nhân dân cần được hướng dẫn một cách thích hợp”. Sau ngày quê hương hoàn toàn giải phóng, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) tỉnh Thừa Thiên Huế bắt đầu được Đảng và Nhà nước quan tâm. Với những chủ trương, chính sách và từ những định hướng của Đảng, Nhà nước, lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế đã quan tâm đặc biệt đối với công tác dân số. Căn cứ vào các văn bản, nghị quyết trên cùng với sự hình thành tổ chức bộ máy, sự phối hợp các ban ngành, đoàn thể, cơ quan chuyên trách đã chủ động tham mưu tích cực cho lãnh đạo các cấp ban hành các văn bản, nghị quyết, quyết định, chỉ thị để triển khai thực hiện công tác DS-KHHGĐ nên đã đạt được những kết quả khích lệ. Mục tiêu chủ yếu là thực hiện việc giảm sinh và duy trì, ổn định quy mô dân số hợp lý, từng bước nâng cao chất lượng dân số. Kết qủa công tác DS - KHHGĐ đã có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội và đời sống nhân dân, nâng cao chất lượng cuộc sống góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của tỉnh trong giai đoạn 2009-2015 và 2015-2020 theo Nghị quyết của HĐND tỉnh.
Thành quả công tác dân số tỉnh nhà thời gian qua
Theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 1/4/2019 đã minh chứng cho những thành tựu của công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình trong thời gian vừa qua. Tổng dân số của tỉnh vào thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2019 là 1.128.620 người. Sau 10 năm, quy mô dân số của tỉnh Thừa Thiên Huế tăng thêm 41,2 nghìn người, bình quân mỗi năm tăng 4,12 nghìn người. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm giai đoạn 2009-2019 là 0,37%/năm giảm nhẹ so với 10 năm trước giai đoạn 1999-2009 là 0,4%/năm). Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số từ trên 3% (năm 1979) giảm còn 1,12% (năm 2011) và năm 2019 là 1,08%. Tổng tỷ suất sinh số con con/phụ nữ đã giảm từ trên 4 con (1979), 3 con (năm 1999) xuống còn 2,26 con (2009) và tăng trở lại năm 2019 là 2,34 con, tăng 0,08 con so với năm 2009. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên năm 2009 là 19,4% giảm xuống còn 15% năm 2019. Hằng năm, số người sử dụng các BPTT tăng nhanh, tỷ lệ cặp vợ chồng sử dụng các BPTT hiện đại năm 2019 là 72%. Cơ cấu các BPTT có xu hướng chuyển dịch từ BPTT lâm sàng sang BPTT phi lâm sàng. Số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ năm 2019 là 27,3% và số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có chồng là 14,3%.
Tuổi kết hôn trung bình lần đầu có xu hướng muộn hơn. Năm 2009 là 24,5 tuổi, trong đó đối với nam là 26,2 tuổi và nữ là 22,8 tuổi và đến năm 2019 là 26,5 tuổi, trong đó nam là 28,5 tuổi và nữ là 24,5 tuổi. So với cả nước (nam là 27,2 và nữ là 23,1 năm 2019) thì tuổi kết hôn của dân số tỉnh Thừa Thiên Huế cao hơn, trong đó nam cao hơn 1,3 tuổi và nữ cao hơn 1,4 tuổi.
Cơ cấu dân số theo độ tuổi hiện nay đã có chiều hướng thay đổi, số lượng và tỷ trọng dân số phụ thuộc đã giảm mạnh so với năm 2009. Với tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động từ 15- 64 tuổi chiếm 64,5% (năm 2009), 66,5% (năm 2019) . Tỷ trọng dân số phụ thuộc dưới 15 tuổi và từ 65 tuổi trở lên năm 2009 là 35,5% và năm 2019 là 33,5% (hiện nay toàn quốc là 32%). Tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động so với nhóm dân số trong độ tuổi phụ thuộc 1,98 lần năm 2019. Đây là thời kỳ cơ cấu dân số vàng. Như vậy Thừa Thiên Huế đã có được một nguồn nhân lực dồi dào phục vụ cho phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của tỉnh trong thời gian tới.
Về cơ cấu dân số theo giới tính đã khống chế tăng tỷ số giới tính khi sinh đều đạt và vượt kế hoạch đề ra hàng năm (khống chế tăng không quá 0,3 điểm/năm). Năm 2011, tỷ số giới tính khi sinh (số bé trai/100 bé gái) ở mức 110/100 và đến cuối năm 2019 khống chế ở mức 112,8/100. (Tỷ số giới tính khi sinh của thành thị là 110,4 và nông thôn là 112,3), năm 2021 là 111,5.
Các hoạt động nâng cao chất lượng dân số được quan tâm và tập trung thực hiện, thông qua việc triển khai các mô hình can thiệp nâng cao chất lượng dân số. Số người cao tuổi được khám sức khoẻ ít nhất một lần tăng từ 8-10%/năm; năm 2019, số người cao tuổi được chăm sóc y tế ít nhất một lần đạt 71% số người cao tuổi toàn tỉnh. Tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5 tuổi năm 2009 lên 71,8 tuổi năm 2019 (tuổi thọ trung bình toàn quốc tăng từ 72,8 tuổi năm 2009 lên 73,6 tuổi năm 2019). Tình trạng suy dinh dưỡng, tử vong trẻ em giảm mạnh. Năm 2005, tỷ lệ suy dinh dưỡng cân nặng/tuổi ở trẻ dưới 5 tuổi là 23%, năm 2019 giảm xuống còn 7,2%. Tỷ suất chết trẻ em dưới 01 tuổi ở mức 4,41%o năm 2005 giảm còn 1,89%o năm 2019. Hiện nay, có 98,76% trẻ em được tiêm chủng đầy đủ các loại vắc xin, 100% trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ khám chữa bệnh miễn phí. Dân số đã có sự phân bố hợp lý hơn, gắn với quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện. Hiện nay, tỷ trọng dân số vùng đô thị đạt 49,5% (tỷ trọng chung toàn quốc năm 2019 là 34,4%). Sau 10 năm, tỷ lệ dân số khu vực thành thị tăng 42,8% (năm 2009 có 391.112 người); quá trình đô thị hóa tại tỉnh Thừa Thiên Huế tăng nhanh, có 02 huyện được nâng cấp thành thị xã (thị xã Hương Thủy và thị xã Hương Trà), xã Phú Đa của huyện Phú Vang được nâng cấp thành thị trấn Phú Đa đã làm cho dân số khu vực thành thị của tỉnh tăng mạnh.
Ảnh: Đoàn Ngọc Thạch - CDC Thừa Thiên Huế
Người dân tộc thiểu số, nhóm dân cư yếu thế được Nhà nước chăm lo, hỗ trợ, tạo điều kiện tiếp cận bình đẳng trong giáo dục, y tế, an sinh xã hội. Theo kết quả tổng điều tra dân số năm 2019, có 55.102 người thuộc dân tộc khác chiếm 4,9% tổng dân số toàn tỉnh. Địa bàn sinh sống của nhóm dân tộc khác tập trung chủ yếu là ở hai huyện miền núi Nam Đông và A Lưới, trong đó dân tộc khác đông dân nhất là dân tộc Tà ôi với 34.967 người chiếm 63,5%; dân tộc Cơ tu với 16.719 người chiếm 30,3% trong tổng số người thuộc dân tộc khác; các dân tộc khác còn lại chiếm 5,2%.
Tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống tại hai huyện Nam Đông, A Lưới từng bước được khống chế. Đến năm 2019, số trường hợp tảo hôn giảm còn 21 trường hợp so với 63 trường hợp năm 2011 (giảm gần 65%); số trường hợp hôn nhân cận huyết thống giảm dần hàng năm và từ năm 2017 cho đến nay không còn trường hợp nào. Các quan niệm, tập tục lạc hậu trong cộng đồng xã hội đã từng bước được hạn chế, ngăn chặn và tiến tới xoá bỏ. Mô hình gia đình hai con đã trở thành chuẩn mực, lan toả, thấm sâu trong toàn xã hội. Những kết quả đạt được về chất lượng dân số đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, công cuộc đổi mới và hội nhập của tỉnh.
Mật độ dân số năm 2019 của tỉnh Thừa Thiên Huế là 224 người/km2 (năm 2009 là 215 người/km2), bằng 77,2% so với mật độ dân số bình quân của cả nước (Mật độ dân số của Việt Nam là 290 người/km2; Trung du và miền núi phía Bắc là 132 người/km2). Trong đó, thành phố Huế diện tích chỉ chiếm 1,4% diện tích của tỉnh nhưng có mật độ dân số bình quân cao với 4.973 người/km2 gấp 22 lần so với bình quân chung của tỉnh. Hai huyện miền núi Nam Đông và A Lưới có diện tích lớn song mật độ dân số chỉ đạt 39 người/km2. Các huyện, thị xã còn lại có mật độ dân số bình quân 228 người/km2. Qua kết quả cho thấy sự phân bố dân cư giữa các vùng có sự khác biệt rõ, cùng với quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh đã làm cho mật độ dân số khu vực thành thị tăng mạnh.
Thành tích của công tác DS- KHHGĐ được xác định rõ qua Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 01/4/2019 đã cho thấy tính đúng đắn về chủ trương, chính sách và các biện pháp triển khai công tác DS- KHHGĐ mà Trung ương và tỉnh đã đề ra. Những kết quả này là sự đóng góp công sức của cả hệ thống chính trị, từ sự quan tâm lãnh chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền; sự phối hợp tham gia triển khai công tác DS- KHHGĐ của các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị- xã hội với các hoạt động, mô hình đem lại hiệu quả cao và sự đóng góp của hệ thống làm công tác DS- KHHGĐ các cấp, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chuyên trách và cộng tác viên DS- KHHGĐ ở khắp các thôn, bản, tổ dân phố trong cả tỉnh.
Những thành tựu đó đã giúp Thừa Thiên Huế nói riêng và Việt Nam nói chung thực hiện thành công các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc như góp phần nâng cao sức khỏe bà mẹ và giảm tử vong ở trẻ em, bình đẳng giới và nâng cao vị thế của người phụ nữ, nâng cao chất lượng dân số.
Khó khăn khi phải thực hiện mục tiêu kép
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, ngành dân số thành phố thời gian tới vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn thách thức. Tổng tỷ suất sinh của tỉnh Thừa Thiên Huế là 2,34 con/phụ nữ, Thừa Thiên Huế vẫn ở trong nhóm 33/63 tỉnh, thành chưa đạt mức sinh thay thế, thuộc nhóm tỉnh, thành có tổng tỷ suất sinh cao nhất toàn quốc, không đồng đều giữa các địa phương. Tình trạng cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức... vi phạm chính sách dân số gia tăng gây khó khăn cho công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân. Nhu cầu sử dụng các biện pháp tránh thai hiện vẫn tăng nhưng nguồn cung ứng phương tiện tránh thai chưa được đa dạng, đầy đủ, kịp thời. Tỷ số giới tính khi sinh còn ở mức cao, không ổn định, lợi thế của dân số vàng khai thác chưa hiệu quả, dân số đang trong giai đoạn già hóa nhưng hệ thống chăm sóc sức khỏe, nhất là chăm sóc chuyên khoa cho người cao tuổi chưa đáp ứng được nhu cầu, hệ thống an sinh xã hội còn hạn chế, chăm sóc sức khỏe vị thành niên/thanh niên còn nhiều khó khăn chưa được giải quyết, chất lượng dân số chưa cao. Tổ chức bộ máy làm công tác dân số có nhiều biến động, nguồn lực đầu tư cho công tác dân số còn hạn chế, chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ công tác dân số trong tình hình mới.
Vượt qua khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ
Năm 2021 là năm đầu tiên thực hiện Quyết định 2014/QĐ-UBND năm 2020 về Kế hoạch hành động giai đoạn 2020-2025 của tỉnh Thừa Thiên Huế thực hiện Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 và Nghị quyết số 04/2021/NQ-HĐND ngày 26/02/2021 của Hội đồng nhân dân tỉnh về việc đẩy mạnh công tác dân số và phát triển giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 lại diễn ra trong làn sóng dịch Covid 19 ảnh hưởng rất nặng nề. Trong bối cảnh đó, đội ngũ cán bộ và công tác viên dân số là cánh tay nối dài của ngành y tế, với sự nhiệt tình tâm huyết không quản ngại khó khăn, gian gian khó đã cùng cả hệ thống chính trị và toàn dân tham gia phòng chống dịch tại cơ sở, góp phần cùng tỉnh thực hiện mục tiêu kép vừa chống dịch, vừa phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, có thể nói dịch bệnh Covid 19 cũng đã tác động rất lớn việc hoàn thành các chỉ tiêu về dân số và phát triển trong năm 2020 và 2021.
Tình hình dịch Covid 19 có thể còn kéo dài và diễn biến phức tạp. Vì vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, nhiệm vụ trong thời gian tới vẫn còn nhiều khó khăn thách thức, đòi hỏi cả hệ thống chính trị phải vào cuộc và thích ứng trong điều kiện mới; phải bám sát các chủ trương, chính sách, sự lãnh chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền để quyết tâm vừa tham gia chống dịch, vừa đảm bảo hoàn thành các chỉ tiêu để có quy mô, cơ cấu dân số phù hợp, tạo nguồn nhân lực chất lượng, góp phần phát triển kinh tế, xã hội, nâng tầm phát triển của tỉnh ta sớm trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trong thời gian tới theo tinh thần Nghị quyết số 54-NQ/TW ngày 10 tháng 12 năm 2019 của Bộ Chính trị.